TRỞ LÊN ĐẦU TRANG

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Minh Hiểu Khê – FULL

15:42 |
Tình yêu có muôn hình vạn dáng vẻ, với những giai điệu phong phú và khác biệt: đó có thể là nốt trầm của mối tình đơn phương thời trung học, cũng có thể là nốt bổng khi hai tâm hồn xa cách tìm lại được nhau. Đôi khi tình yêu ngọt ngào như những viên kẹo, có lúc lại đắng như sôcôla (nhưng sôcôla thì càng nhấm càng thấy ngọt ngào). Dường như tất cả những tình yêu đó đều có một mẫu số chung, đó đều là những nhịp đập bồi hồi của trái tim. Và chính con tim, như một cách ví von của tình cảm, là khởi nguồn cho câu chuyện tình đầy chất thơ trong Sẽ có thiên thần thay anh yêu em. Thêm một tiểu thuyết tình yêu ngọt ngào cho mùa lễ Tình nhân, nhưng giai điệu mà Sẽ có thiên thần thay anh yêu em cất lên thật thanh tao và kì lạ.
Nếu như nói con tim quyết định tình yêu của người ta dành cho một ai đó thì Sẽ có thiên thần thay anh yêu em lại kể câu chuyện của Tiểu Mễ - cô bé đã đuổi theo trái tim của người con trai mình yêu, quyết tâm chinh phục số phận để giành lại tình yêu của mình. Cô gái đó đẹp và ngây thơ một cách kì lạ, như cái cách tác giả Minh Hiểu Khê miêu tả: như một thiên thần. Nhưng ẩn bên trong sự thánh thiện, mỏng manh và yếu ớt đó là cả một ý chí kiên cường mà hiếm người con gái nào có được. Sau sự ra đi đột ngột củaDực - bạn trai mình, Tiểu Mễ chuyển đến học ở một trường học hoàn toàn xa lạ khi học kỳ đã sắp kết thúc chỉ để tìm ra người con trai đã nhận được trái tim hiến tặng của bạn trai cũ. Cô khao khát được yêu, được trở thành một thiên thần và đã làm tất cả chỉ để tiếp cận chàng trai kia: chạy 10.000m, làm bài luận, lội xuống nước trong một ngày trời lạnh cóng để tìm chiếc khuyên tai cho anh ta…
Đọc Sẽ có thiên thần thay anh yêu em, không ít độc giả sẽ xót xa tự hỏi, tại sao và điều gì có thể khiến một cô gái yếu ớt như vậy làm tất cả điều đó? Câu trả lời thật đơn giản: chỉ vỏn vẹn hai chữ “tình yêu”. Nếu như tình yêu với Dực như tiếp thêm sức mạnh giúp Tiểu Mễ :Dnhư mạnh mẽ hơn, hồi sinh và đầy tươi mới thì cũng chính thứ tình cảm chỉ vừa chớm nở nhưng đã rất sâu sắc đó đã thay đổi hoàn toàn Đường Diệu - người con trai mà Tiểu Mễ tiếp cận, yêu thương và sẵn sàng làm tất cả chỉ để anh vui. Kể từ khi biết cô, anh từ một kẻ bất cần, khó chịu đã dần biết cách mở lòng và bày tỏ tình cảm thực của mình với bạn bè, với mẹ và với cả Tiểu Mễ nữa.
Tình yêu chân thành, tưởng như không lay chuyển được làm thế giới xung quanh họ dường như cũng tốt đẹp hơn. Những cử chỉ dịu dàng của cô đã thiêu rụi lòng tự tôn sự kiêu hãnh nơi anh. Rồi nhờ có anh chăm sóc, cô trở lại vui tươi, hoạt bát, chừng như đã có thể vượt qua kí ức đau buồn xưa cũ. Nhưng tất cả đã biến thành nỗi đau, thành địa ngục với cả hai khi Tiểu Mễ phát hiện ra trái tim đang đập trong lồng ngực kia chẳng phải là của Dực như cô vẫn tưởng, còn Đường Diệu thì cuối cùng cũng hiểu ra lý do cô đến với mình. Yêu nhiều thì hận cũng nhiều, và xa cách tưởng như là tất yếu thì thêm một lần nữa, phép màu của tình yêu lại đến với họ.
Mang theo một cốt truyện nhiều nỗi buồn, nhưng Sẽ có thiên thần thay anh yêu em lại chẳng bao giờ thiếu đi sức sống và hình ảnh của hạnh phúc. Bởi khi như Bùi Ưu - chàng trai yêu đơn phương Tiểu Mễ nói: yêu là hạnh phúc. Bởi vì, yêu một người, nên chỉ cần người ấy vui vẻ thì việc gì cũng có thể làm và nếu bị người ấy quên đi, tất cả dường như sụp đổ vậy. Nỗi lo sợ mất đi người mình yêu vĩnh viễn ấy trong truyện cứ thấm dần vào lòng độc giả qua mỗi trang viết, bắt đầu từ sự ra đi của Dực và được đẩy lên tới đỉnh điểm khi Đường Diệu lại một lần nữa ngã bệnh. Thiên thần Tiểu Mễ có thể từng đau khổ đến mức nghĩ tới cái chết, nhưng cô phải sống vì chỉ khi đó, người cô yêu nhất, muốn hi sinh nhất mới tồn tại. Bên nhau, Tiểu Mễ và Đường Diệu xoa dịu cho người kia những đớn đau và lỗ hổng trong tâm hồn. Niềm vui, nỗi buồn, nụ cười và những giọt nước mắt cứ thế xen kẽ trong từng trang truyện khiến người ta không thể thôi bị thúc ép đi đến tận cùng cuốn sách.
Càng đọc Sẽ có thiên thần thay anh yêu em, độc giả sẽ càng thấy bị cuốn đi trong khung cảnh trữ tình mà tác giả Minh Hiểu Khê đã tạo ra bằng ngòi bút của mình. Giọng văn chậm rãi, từ tốn và đậm chất thơ dễ nhận ra trong những câu văn ngắn, mang đầy tính tự sự và không khí lặng lẽ, u buồn. Như một bản tình ca được tấu lên ở khúc trầm nhất nhưng vẫn khiến người ta rung động đến tận tâm khản, Sẽ có thiên thần thay anh yêu em thực sự là một tiểu thuyết tình cảm xuất sắc bởi tình yêu trong nó, dù đến từ hoài niệm hay hiện tại đều giữ được những giá trị chân phương nhất.
“Anh sẽ thích em bao lâu?”
“Mãi mãi”
“Mãi mãi là bao lâu?”
Với những ai vừa trải qua ngày Valentine trán ngập tình yêu, hãy dành tặng Sẽ có thiên thần thay anh yêu em như một lời cảm ơn. Với những ai đang còn mải mê trên con đường kiếm tìm tình yêu thực sự, cũng tự hài lòng với những xúc cảm này nhé!

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 1

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 2

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 3

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 4

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 5

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 6

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 7

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 8

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 9

Sẽ có thiên thần thay anh yêu em – Chương 10

Read more…

Truyện cười về Trạng Quỳnh – tiếp theo

15:41 |

Đọc truyện cười hay nhất: Truyện cười về Trạng Quỳnh – tiếp theo, chúc các bạn có những giây phút thư giãn

truyen cuoi hay
truyen cuoi hay

1. TRẢ ƠN BÀ CHÚA LIỄU

Gặp khoa thi, Quỳnh ra ứng thí. Đường đi qua đền Sòng, Quỳnh vào yết Chúa Liễu, xin Chúa phù hộ cho, đỗ thì xin trả lễ. Quỳnh ra thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh quy về, Quỳnh mua một con bò mẹ, một con bò con đem đến lễ. Quỳnh quỳ xuống lạy, rồi dắt con bò mẹ đến buộc vào tay ngài mà khấn rằng:
- Chúa có lòng thương phù hộ cho Quỳnh được đỗ, nay gọi là có một con bò để trả lễ. Xin Chúa nhận cho. Chúa là chị, xin lễ con lớn, còn con nhỏ, em xin đem về khao dân
Nói rồi, dắt bò con về. Con bò mẹ thấy dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm ngai Chúa đổ lổng chổng, lộng gãy cả. Quỳnh cười nói:
- Chị thương em nghèo, trả không lấy, thì em xin đem về vậy.
Nói rồi dắt cả hai mẹ con bò về.

 2.ĐẦU TO TẠ CHÚA LIỄU BA BÒ

Chuyện Quỳnh lừa bà Chúa Liễu chỉ cúng bò bằng lời khấn suông, lại còn làm đổ gãy cả tai ngai, làm Chúa giận lắm, nên Chúa bắt vợ Quỳnh ốm lăn ốm lóc. Theo yêu cầu của vợ, Quỳnh đành phải đến đền khấn, để Chúa Liễu giải hạn cho. Quỳnh đến, khấn:
- Em lỡ đùa với chị, em có lỗi, thì chị quở em, sao chị lại phạt vợ con em bắt phải ốm, mà họ có tội tình gì? Em xin chị tha cho vợ con em, và xin lần này sẽ tạ chị ba bò, em sẽ để ở ngoài sân, chứ không dám vào đền, chị yên tâm, khỏi phải lo gãy đổ.
Chúa Liễu nghe Quỳnh nói lễ những ba bò thì mừng lắm. Lại hứa cúng ở ngoài sân, như thế, thì Quỳnh cũng tỏ ra biết điều.
Khi vợ con hết ốm, Quỳnh lững thững đến đền với đôi tay không, rồi đứng trước bàn thờ Chúa Liễu, chắp tay khấn:
- Chị đã phù hộ cho vợ con em tai qua nạn khỏi, biết ơn chị, nay giữ đúng lời hứa, em xin tạ chị đủ “Ba bò” ở ngay tại sân đền.
Nói xong, Quỳnh từ từ lui ra, rồi quỳ xuống, bò đúng ba vòng trước sân. Bò xong, Quỳnh phủi tay, đứng dậy, ngoảnh mặt vào phía bàn thờ Chúa Liễu cười:
- Thế là chị sướng nhá! Em tạ chị lần này những “Ba bò” đấy!
Xong, Quỳnh ung dung bước ra về, để lại nỗi tức giận tràn hông cho Chúa Liễu

3. QUỲNH CÚNG THẦN HOÀNG

Lần khác, vợ Quỳnh ốm, thuốc thang chữa mãi không khỏi, xem bói, thì ra không phải tại Chúa Liễu mà do động Thành Hoàng bản thổ. Quỳnh ra đình khấn vái, xin Thành Hoàng cho khỏi, sẽ sửa gà lễ tạ. Khấn xong, về đến nhà thì vợ đã khỏi rồi. Bà vợ giục làm gà lễ tạ, Quỳnh bảo:
- Được, nhà không có gà ta có cái khác để lễ tạ rồi. Rồi Quỳnh vào ổ gà, thủ hai quả trứng, đem luộc. Người nhà tưởng luộc để đánh gió. Một lúc, Quỳnh khăn áo chững chạc, cầm cái đĩa và hai quả trứng đi. Người nhà lấy làm lạ, đi theo xem, thì thấy Quỳnh vào đình để đĩa trứng lên hương án rồi đứng đọc bài văn tế nôm rằng:
Chú là kẻ cả trong làng,
Ta là người sang trong nước,
Đôi bên chức tước chả kém gì nhau.
Vì trẻ nó đau, phải ra khấn vái.
Phiên chợ thì trái, không mua được gì.
Nhà có con ri nó vừa nhảy ổ,
Bắt ra mà mổ, nghĩ cũng thương tình,
Chú có anh linh, xơi hai trứng vậy.
Khấn xong, chẳng lễ, chẳng vái gì trở ra về nói với vợ là yên tâm dưỡng cho thật lành bệnh bởi Thần hoàng đã nhận lễ mà bằng lòng rồi.

4. BÀ BANH HẾT CẢ LINH THIÊN

Hồi ấy, gần xứ Quỳnh ở, có một pho tượng đá rất kỳ lạ, trần truồng đứng giữa đồng, miệng tủm tỉm cười, tay trỏ xuống chỗ kín, gọi là tượng bà Banh.
Pho tượng kỳ cục vậy nhưng linh lắm, ai đi qua trông thấy, nhếch mép cười thì không xếch mồm cũng méo miệng. Đồn rằng đó là chỗ người Tàu giấu của, thiêng lắm. Quỳnh nghe đồn, đi xem. Đến nơi thấy tượng trần truồng mà chân lại đi giày, cổ đeo hạt. Quỳnh không cười không nói, cầm bút đề ngay vào ngực tượng một bài thơ nôm rằng:
Khen ai đẽo đá tạc nên thầy!
Khéo đứng ru mà đứng mãi đây?
Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt.
Dưới chân đứng chéo một đôi giày,
Ấy đã phất cờ trêu ghẹo tiểu,
Hay là bốc gạo thử thanh thầy?
Có ngứa gần đây nhiều gốc dứa,
Phô phang chi ở đám quân này.
Quỳnh đề thơ xong, bỏ đi. Tượng đá bỗng toát mồ hôi ra từ đó mất thiêng.

5. PHẬT SAY

Làng Thụy Chương xưa là một làng nổi tiếng về nấu rượu. Rượu ở đây thơm ngon đặc biệt.
Mé trước làng ở ven hồ Tây có một ngôi chùa nhỏ. Thời Lê Trung Hưng, chùa đổ nát chỉ còn trơ một pho tượng tay chống gậy, xiêu vẹo, nghiêng ngả.
Một hôm Quỳnh vào làng mua rượu, thấy pho tượng như vậy, mới làm mấy câu thơ
đùa:
Ông đứng chi mà đứng mãi đây?
Dập dềnh như tỉnh lại như say,
Vãi nào đã chuốc cho ông rượu?
Còn có cho vay một nậm đầy?
Tương truyền từ đó, dân làng ai cũng gọi tượng là “Phật say”.
Dòm Nhà Quan Bảng
Tương truyền rằng Quỳnh sinh cùng thời với nữ sĩ nổi tiếng, người đã dịch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn ra thơ Nôm là Đoàn Thị Điểm.
Ngày ấy, Quỳnh đã thành niên, nhà quan Bảng sinh ra thị Điểm, dạy học trò đông lắm. Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem bình văn, để ngấp nghé cô Điểm. Học trò biết ý, vào thưa với quan Bảng, ngài liền cho bắt vào hỏi:
- Anh kia, anh muốn gì mà cứ thậm thò thậm thụt vào ra nơi đây?
Quỳnh thưa:
- Tôi là học trò, thấy trường quan lớn bình văn, tôi đến nghe trộm.
Quan Bảng nói:
- Ta biết rồi, anh đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải học trò thì ta ra cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn!
Quỳnh vâng.
Quan Bảng ra một câu:
- “Thằng quỷ ôm cái dấu đứng cửa khôi nguyên.”
Quỳnh ứng khẩu đối ngay:
- “Con mộc dựa cây bàng dòm nhà Bảng nhãn.”
Quan Bảng ngạc nhiên vô cùng. Câu đối phải nói vào loại “Hóc” thế mà Quỳnh đọc ngay không cần nghĩ ngợi gì chứng tỏ phải là người thông minh xuất chúng. Ông có bụng yêu, bèn giữ Quỳnh lại nuôi cho ăn học. Từ ngày đó, như rồng gặp mây, Quỳnh học tấn tới lắm, kỳ nào văn cũng được đọc mẫu. Từ ngày trường quan Bảng có Quỳnh, bao nhiêu học trò danh sĩ đều phải nhận Quỳnh là tài giỏi hơn cả.
Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có ý muốn gả cô Điểm cho, mà cô Điểm nghe cũng thuận.
Quỳnh biết rằng cô Điểm chắc vào tay mình rồi, thỏa được ước nguyền, song tính tinh nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô Điểm đứng đắn, thùy mị lại không ưa kiểu chớt nhả, Quỳnh lại càng ghẹo dai. Chính vì vậy mới có những cuộc đối đáp lý thú về sau này…

6. Đối Đáp Với Đoàn Thị Điểm

Thuở còn đi học, Quỳnh càng ngày càng mê cô con gái thầy học là Đoàn Thị Điểm là người vừa xinh đẹp, đoan trang lại giỏi văn thơ.
Nhưng trêu chọc với nàng không dễ bởi ngoài tính tình đoan trang, Thị Điểm còn rất giỏi văn thơ nhất là ứng đối. Có lần Quỳnh từ phố Mía về, Thị Điểm thấy Quỳnh đang ngồi, liền ra ngay một vế đối có ý trêu:
“Lên phố Mía gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường.” (kẹo tiếng địa phương còn có nghĩa là kéo lại).
Gặp câu đối ra toàn mía, mật kẹo, đường, Quỳnh nghĩ mãi không ra vế đối, bí quá, đành phải đánh bài chuồn.
Một hôm, thấy cô Điểm vào buồng tắm, nhà vắng, Quỳnh nghịch ngợm gõ cửa đòi vào. Cô Điểm vốn hay chữ, tức cảnh, ra ngay một vế đối, bảo Quỳnh đối được thì cho vào. Câu đối như sau:
- “Da trắng vỗ bì bạch!”. (Bì bạch, chữ hán cũng có nghĩa là da trắng).
Quỳnh nghĩ nát óc cũng không tìm ra câu để đối, đành lủi thủi bỏ đi nhưng nghĩ bụng sẽ tìm dịp lỡm lại Thị Điểm.
Một lần khác, Quỳnh ngồi đối diện với Thị Điểm qua cửa sổ Thị Điểm lại đọc một câu:
“Hai người ngồi song song hai cửa sổ.” (Song là hai, song cũng có nghĩa là song cửa). Lại một lần nữa, gặp câu quá hóc búa, Quỳnh bí quá đành lảng ra chỗ khác.
Một hôm tối trời, thừa lúc Thị Điểm ra ngoài, Quỳnh lẻn vào giường Thị Điểm nằm trước. Thị Điểm không biết, vào buồng sờ soạng, vô tình quờ ngay tay vào… Thị Điểm biết ngay là Quỳnh nghịch ngợm, liền ra cho một vế đối, bảo không đối được sẽ mách thầy học về tội sàm sỡ.
Vế đối ra như sau:
“Trướng nội vô phong phàm tự lập.”
(Trong phòng không có gió mà cột buồm lài dựng lên)
Lần này Quỳnh đối được ngay:
“Hưng trung bất vũ thủy trường lưu”
(Trong bụng không có mưa mà nước vẫn chảy dài).
Lần đó Quỳnh thoát tội.
Nhân ngày xuân, thầy sai Thị Điểm đem lễ lên chùa. Quỳnh được thầy cho theo cùng. Trên đường, Thị Điểm chỉ cây xương rồng bảo Quỳnh:
- Cây xương rồng, trồng đất rắn, long vẫn hoàn long (Long là lỏng lẻo, chữ Hán long nghĩa là rồng, mà chữ rồng đã dùng ở trên).
Về ý, Thị Điểm nói bóng, Quỳnh ngang ngạnh, có dạy dỗ thế nào cũng không chuyển được.
Chữ đối đã khó, ý lại sâu xa. Thế mà Quỳnh đối lại được rất chỉnh, lại tỏ được cái ý nhất quyết giữ cái tính ấy và còn thách thức Thị Điểm nữa. Quỳnh đối mhư sau:
- Quả dưa chuột, tuột thẳng gang, thử chơi thì thử (Thử chữ hán nghĩa là chuột, mà chữ chuột cũng đã dùng trên).
Cũng qua lần đối đáp này, hai người thấy tư tưởng không hợp nhau nên từ đấy thôi xướng họa.

7. TẤT CẢ ĐỀU CÂM ĐIẾC

Sinh thời, lúc còn thanh niên, nổi tiếng là người thông thái, hiểu rộng, biết nhiều, nhưng Quỳnh không ưa gì chuyện cử nghiệp bởi chính ông là người luôn châm chọc cái cảnh phải luồn cúi của các “Bậc công hầu”. Vì vậy, mỗi lần triều đình mở khoa thi, nhiều người giục chàng lều chõng ứng thí, chàng đều gạt phăng, tìm cách nói lãng sang chuyện khác. Lần ấy vì nể thầy học, lời khuyên của bạn bè, và lòng kỳ vọng của dân làng, Quỳnh đành đi thi cho phải phép. Năm đó, nhà chúa mừng sinh nhật con trai, các quan trường bèn nảy ra ý định nịnh hót chúa, bàn nhau ra đề thi nói về điềm lành của đất nước. Đoán được ý ấy, Quỳnh nghĩ ra cách làm một bài văn phải hàm được hai nghĩa: Bề ngoài, đọc lên nghe như lời ca công đức của chúa và sự an vui của mọi người, nhưng nghĩa ẩn của nó lại là một sự phủ định. Trong bài văn ấy có hai câu khái quát hiện trạng đất nước như sau:
“Quan tắc cổ, dân tắc cổ, đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân”.
(Nghĩa là: Quan cũng theo phép xưa, dân cũng theo phép xưa, đội ơn quan, dân được sống đời Nghiêu Thuấn) và đối lại:
“Thượng ung tai, hạ ung tai, ỷ đầu lai Đường ngu chi đức”.
(Nghĩa là: Trên cũng vui vậy thay, dưới cũng vui vậy thay, dựa vào đám đầu lại có đức độ thời Đường Ngu).
Mới nghe đọc lên lần đầu chúa Trịnh đã khen: Hay quá, người làm hai câu này thật xứng đáng cho giải nhất!
Quan chủ khảo đứng bên cạnh cũng đã từng nghe danh tiếng của Quỳnh, liền tâu với chúa:
- Khải chúa? Trong hai câu ấy, thần thấy có ẩn cái ý không thuận.
- Quan thật đa nghi quá. Ca tụng công đức của chúa như vậy có gì mà không thuận?
- Khải chúa, cứ theo cái nghĩa chữ Hán thì hai câu ấy đúng là hay thật, nhưng Quỳnh là loại thâm nho, từng đã dùng chữ nghĩa chơi khâm nhiều người và chắc hắn không bao giờ bằng lòng thứ văn chương một nghĩa. Theo sự hiểu biết cạn hẹp của thần, thì hai câu ấy xướng theo nghĩa đồng âm trực tiếp nghe ra ngại lắm, không dám đọc lên để chúa thưởng lãm.
- Ta cho phép quan cứ nói.
- Khải chúa, nếu vậy thần xin nói, hai câu ấy có dụng ý phỉ báng, táo tợn. Nếu đọc theo kiểu nôm, thì rõ ràng là câu chưởi tục.
- Chưởi tục cũng không sao, mà người cứ trình bày ta nghe thử!
- Vậy thần mạo muội thưa:
“Quan tắc cổ, dân tắc cổ”
Nghĩa là “Trên cũng câm, dưới cũng câm” (thưa tắc cổ là câm không dám nói đấy ạ!). Còn ” đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân” tức là “đái vào hàm bọn quan lại dám bảo rằng dân chúng đang sống dưới thời Nghiêu Thuấn”.
- Nếu quả vậy thì Quỳnh láo thật!
- Khải chúa, chưa hết đâu. Câu sau này còn hàm ý báng bổ tệ hại hơn. “Thượng ung tai, hạ ung tai”, nghĩa là “Đứa trên thối tai, đứa dưới cũng thối tai”.
(Ung tai tức thối tai, là cả trên dưới đều là một lũ điếc đấy ạ). Vì điếc hết nên không biết rằng “ỷ đầu lai Đường ngu chi đức” nghĩa là hắn bảo ” ỉa vào đầu lũ nha lại dám bảo rằng kẻ sĩ đang mở mặt giữa đời Đường Ngu”.
- Lão quát! Thật láo quá! Vậy thì nên xử lý như thế nào?
- Khải chúa! Đối với Quỳnh phải hết sức thận trọng. Không thể bắt bẻ hắn ta, vì trên giấy trắng mực đen không thể luận tội được. Chí có một cách bí mật đánh hỏng y. Thần là chủ khảo, nên điều ấy không khó, xin chúa hãy yên lòng.
- Mà đánh hỏng Quỳnh có nghĩa là làm theo đúng ý của Quỳnh đâu có cần đỗ đạt. Quỳnh đi thi là để đáp lại tấm thịnh tình của mọi người thân, lại có cơ hội đả kích vào thói xu nịnh của đám quan trường và “Chọc” nhà chúa một trận nên thân, còn mình thì vẫn giữ tròn khí tiết

8. THỪA GIẤY VẼ VOI

Trong lần thi hội Cống, Quỳnh không có ý định để lấy Trạng Nguyên, nên Quỳnh nhận lời.
Lúc vào trường thi, Quỳnh làm bài rất nhanh, xong sớm trước nhiều thí sinh khác. Lẽ ra Quỳnh đem nộp quyển, nhưng vì chẳng thiết chuyện đỗ đạt, nên tái mái dở bài ra xem lại. Thấy còn một đoạn giấy trắng bên dưới, Quỳnh liền chấm bút vẽ một bầy voi, rồi tiện tay đề luôn bên cạnh mấy câu thơ ngẫu hứng:
Văn chương phú túc đã xong rồi
Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi?
Tớ có một điều xin bảo thật
Đứa nào cười tớ, nó ăn boi.
Quỳnh làm như vậy là cố ý chọc tức các quan chủ khảo, họ sẽ điên tiết lên khi đọc những dòng này và sẽ đánh hỏng Quỳnh với tội “Phạm trường quy”. Thực ra Quỳnh đâu cần sự thăng quan tiến chức.
Lúc ấy, có viên quan giám thị theo dõi, liếc thấy bài thơ tứ tuyệt ngạo mạn của Quỳnh, liền chạy đi báo với ban giám khảo. Quan sơ khảo và quan phúc khảo rón rén đến dòm thử thì quả đúng như vậy. Quỳnh biết các hành động của ban giám khảo, nhưng cứ tảng lờ coi như không. Đợi đến lúc các quan trường xúm lại đông đảo, Quỳnh mới đưa bút viết tiếp hai câu thơ nữa vịnh bức tranh voi vừa vẽ:
Voi mẹ, voi con, voi lúc nhúc
Chú sơ, chú phúc, rúc mà coi.
Đám quan viên lúc này cảm thấy sượng sùng nên bấm nhau rút lẹ, đứng lâu ở đó e không khéo lại bị Quỳnh chơi khăm, mất mặt nữa.

9. Ngọc Người


Chúa Trịnh có một viên ngọc quí, suốt ngày nâng niu, giữ gìn rất cẩn thận. Nhân một buổi dạ tiệc, chúa đem ngọc ra khoe. Các quan nhiều kẻ có thói hay nịnh bợ, đua nhau tán tụng. Kẻ thì nói: “Ngọc của chúa quý hơn ngọc của rắn, mang vào người, có thể nghe được tiếng chim kêu, tiếng sâu, kiến!”. Kẻ khác lại nói: “Ngọc của chúa quý hơn ngọc rết, giữ ngọc rết trong người dao chém không đứt, tên bắn không trúng, xông pha trận mạc như đi vào chỗ không người!”. Kẻ khác lại ngọt ngào: “Ngọc của chúa quý hơn ngọc ba tiêu, lấy trong cây chuối, ba nghìn năm mới có một lần, giữ được ngọc này thì thoát tục, tới được cõi bồng lai, lại có thể phân biệt được đâu là yêu quái, đâu là người trần tục!”. Nhiều kẻ thi nhau tán tụng, nào đó là ngọc kỵ thuỷ, ngọc kỵ hỏa v.v…
Thấy Quỳnh vẫn đứng yên không nói năng gì, chúa bèn hỏi. Quỳnh chắp tay cung kính thưa:
- Bẩm chúa, trong cõi trời đất này, không có gì quý bằng người. Ngọc rắn, ngọc rết có quí, những sau dám sánh bằng ngọc người? Ngọc người thì chỉ nằm trong óc người. Nhưng chỉ kẻ nào ngu ngốc mới có ngọc, còn khôn ngoan, thông minh thì không thể có được!
Chúa hỏi:
- Vì sao người ngu ngốc mới có ngọc?
Quỳnh đáp: – Chúa chả nghe người ta bảo người khôn thì anh hoa phát tiết ra ngoài đó ư? Còn kẻ ngu ngốc vì bao nhiêu cái khôn không xuất ra được nên hun đúc trong óc rồi lâu ngày dẫn thành ngọc!
Chúa nghe vậy thì tin, thích lắm bảo rằng:
- Ngươi nói nghe có lý. Vậy thì ngươi mau tìm cho ta một viên ngọc người vậy! Quỳnh lại tâu:
- Kẻ hạ thần tuy là người trần mắt tục nhưng vẫn thấy hào quang đang tỏa rạng quanh mình chúa.
Đám bá quan văn võ ưa xu nịnh nghe thế được dịp dập đầu thanh hô vang:
- Muôn tâu, hào quang tỏa rạng quanh mình chúa thượng. Hào quang tỏa rạng quanh mình chúa thượng! Chúng thần nhìn rõ lắm!
Nghe lời nịnh ấy, chúa vô cùng thích chí, mặt mày rạng rỡ. Quỳnh tiếp ngay:
- Tâu chúa thượng, đó chính là hào quang của viên ngọc. Nếu chúa muốn thấy nó, xin chúa hãy truyền cho ngự y tìm cách mổ óc ra sẽ được ngọc ngay! Chúa chợt hiểu ra mình bị chơi xỏ, tức uất người ngưng chỉ đành câm lặng trong khi bọn quan nịnh thì chả hiểu sao chúa vừa vui vẻ đã quay sang bực bội.
Read more…

Truyện cười về Trạng Quỳnh

15:40 |
Câu truyện dân gian hài hước của một ông Trạng nổi tiếng là dí dỏm - Trạng Quỳnh. Bạn sẽ tìm lại được những truyện quen thuộc như Đất nứt con bọ hung, Dê đực chửa, Trả nợ anh lái đò, Ông nọ bà kia, Trạng chết Chúa cũng băng hà… Phần lớn các truyện mượn tiếng cười để đả kích thói xấu của nhân gian hoặc ca ngợi những điều hay lẽ phải.
truyen cuoi hay
truyen cuoi hay

1. ĐẦU TO BẰNG CÁI BỒ

Chuyện kể rằng lúc Quỳnh còn nhỏ, mới bảy tám tuổi, Quỳnh đã tỏ ra thông minh đỉnh ngộ nhưng cũng là một đứa trẻ chúa nghịch. Hồi ấy bọn trẻ thường chơi trò xước xách, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng. Trong trò chơi, Quỳnh bao giờ cũng lấn lướt.
Một đêm mùa thu, trăng tháng tám sáng vằng vặc, đang chơi với đám trẻ ở sân nhà, Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiệu cho tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người mà cái đầu to bằng cái bồ!
Lũ trẻ tưởng thật, liền tranh nhau làm kiệu rước Quỳnh đi vòng vòng quanh sân, mệt thở muốn đứt hơi. Xong, chúng nhất định bắt Quỳnh phải giữ lời hứa. Lúc ấy trăng đã mờ, Quỳnh bảo:
- Tụi bây đứng đợi cả ở đây, tôi đi đốt lửa soi cho mà xem!
Bọn trẻ nhỏ hơi sợ, không dám ở lại, chỉ những đứa lớn hơn, bạo dạn đứng chờ. Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn đèn, bảo:
- Kìa, trông trên vách kìa. Ông to đầu đã ra đấy!
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiệu đền, Quỳnh chạy vào buồng đóng cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.

2. ĐẤT NỨT CON BỌ HUNG

Từ thuở bé, ngoài tính nghịch ngợm, hiếu động, Quỳnh còn tỏ ra thông minh xuất chúng khi học rất giỏi và đối đáp hay, nhất là khi ứng khẩu.
Trong làng cậu bé Quỳnh có một người hay chữ nhưng tính tình kiêu ngạo, đi đâu cũng khoe khoang, tên gọi là ông Tú Cát. Tất nhiên, từ nhỏ Quỳnh đã ghét những người có bản tính như vậy. Một hôm, Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám thì Tú Cát đi qua. Đã được nghe người ta đồn đãi về thần đồng này, Tú Cát không ưa gì Quỳnh, ông ta ra vẻ kẻ cả gọi Quỳnh đến bảo:
- Ta nghe thiên hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp rất giỏi. Bây giờ ta ra cho mày một vế đối, nếu mà không đối được thì sẽ biết tay. Nhất định ta sẽ đánh đòn cho chừa các tật láo, nghe chưa!
Nói xong, không đợi Quỳnh thưa lại, Tú Cát liền gật gù đọc:
- “Lợn cấn ăn cám tốn.”
Đây là một câu đối rất hắc búa bởi “Cấn” và “Cám” vừa chỉ lợn và thức ăn của lợn, lại vừa là hai quẻ trong kinh Dịch, người có học nhiều còn thấy khó. Thế nhưng, không nao núng, Quỳnh đọc lại ngay:
- “Chó khônss chớ cắn càn.”
Quả là một vế đối vừa chỉnh vừa có ý xỏ xiên. “Khôn” và “Càn” cũng là hai quẻ trong kinh Dịch, Quỳnh lại còn ngầm ý chưởi Tú Cát là đừng có mà rắc rối. Bị thằng nhỏ hơn mình chơi lại một đòn đau, Tú Cát tức lắm, hầm hầm bảo:
- Được để coi mầy còn thông minh đến cỡ nào. Tao còn một vế nữa, phải đối ngay thì tao phục!
Nói xong Tú Cát đọc ngay:
- “Trời sinh ông Tú Cát!”
Vế vừa ra mang tính cách ngạo nghễ, phách lối. Nào ngờ, Quỳnh chỉ ngay xuống đất, dưới lớp phân heo đùn lên những ụ nhỏ mà đáp:
- “Đất nứt con bọ hung!”
Đến nước này thì dù tức đến hộc máu mồm, Tú Cát cũng đành cút thẳng.

3. DÊ ĐỰC CHỬA

Tiếng tăm về một thần đồng nhanh chóng được truyền tụng khắp nơi, ngày càng lan rộng và đến tận kinh đô. Nhà vua muốn biết hư thực ra sao, nhưng là người chuộng nhân tài, sau khi suy nghĩ, vua bèn ban lệnh: Cả phủ Thanh Hóa, mỗi làng phải đem nộp một con dê đực đang chửa. Sau hai tháng, nếu làng nào không có sẽ bị trị tội. Cái lệnh chéo ngoe ấy tất nhiên làm dân chúng phủ Thanh Hóa shốt hoảng sợ hãi. Cả làng Quỳnh ở, ai cũng nhớn nhác lo âu. Tìm đâu ra dê đực chửa? Mà từ xưa đến giờ đã nghe ai nói cái chuyện lạ lùng ấy đâu! Thế nhưng, khi biết chuyện đó, Quỳnh nói với bố:- Chuyện gì chớ chuyện này xin bố đừng lo. Bố cứ bảo dân làng chuẩn bị cho con một trăm quan tiền và gạo ăn đường, con sẽ kiếm được dê đực chửa cho làng. Nghe Quỳnh nói vậy, ông bố không tin, nhưng cũng thưa lại vơi dân làng. Người tin kẻ nghi nhưng không còn có cách nào khác, mọi người đành làm theo yêu cầu của Quỳnh. Sáng hôm sau, hai cha con Quỳnh lên đường. Họ đến kinh đô khi nhà vua có việc đi qua cửa Đông. Quỳnh nép xuống cống sát vệ đường chờ. Khi xa giá nhà vua đến gần, Quỳnh khóc rống lên. Nghe tiếng khóc có vẻ lạ, vua sai lính lôi đứa trẻ đang khóc lên hỏi nguyên do. Quỳnh vờ như không biết đấy là vua, càng gào to, kể lể:
- Mẹ tôi đã chết mấy năm nay, tôi nói mãi mà bố tôi không chịu đẻ em bé cho tôi bế…
Vua nghe nói câu ấy, bật cười bảo rằng:
- Ôi chao quả là một thằng bé đần độn. Ba mày là đàn ông mà đẻ làm sao được?
Chỉ đợi cho vua nói vậy, Quỳnh liền nín ngay, rồi đứng chắp hai tay lại, nói thật trang nghiêm:
- Thưa ông, vậy mà nhà vua bắt dân làng tôi phải nộp dê đực chửa!
Nghe nói vậy, nhà vua giật mình, biết ngay đây là đứa bé thần đồng mà bấy lâu mình vẫn nghe đồn.

4. MIỆNG KẺ SANG

Bấy giờ Quỳnh đã hơi lớn, đang độ thiếu niên. Trên đường từ phủ về khát quá, Quỳnh vào một quán nước bên đường. Trong quán có một viên quan, dáng oai vệ, đang ngồi nhai trầu bỏm bẻm. Cạnh đó, có một lính vệ đứng hầu. Quan nhai xong, hách dịch vứt miếng bã trầu ra đất.
Quỳnh đang ngồi uống nước, thấy ngứa mắt liền bước lại cuối nhặt lên, ngắm nghía như muốn tìm kiếm cái gì, rồi đút vào túi.
Quan thấy lạ, hỏi:
- Mày là ai? Làm gì vậy?
Quỳnh làm bộ khúm núm đáp:
- Bẩm, con là học trò nghèo, lâu nay thường nghe người ta nói “Miệng nhà quan có gang có thép” muốn nhặt lên đem về coi thử có đúng thế không?
Biết mình bị xỏ, lại không biết tên học trò xấc xược này là Quỳnh, quan liền bảo:
đã xưng là học trò thì người phải đối ngay câu tục ngữ mà người vừa nói đó đi, hay thì ta thưởng, dở sẽ đánh đòn. Mà nhớ là tục ngữ phải đối bằng tục ngữ, nghe chưa!
Quỳnh giả bộ rụt rè, thưa thưa bẩm bẩm:
- Con sợ mang tiếng xấc xược… Không dám đối.s
Tưởng anh chàng học trò đang bí, quan bảo:
- Ta cho người cứ nói, còn đối không được thì nằm xuống để ta đánh đòn.
- Nếu thế thì con xin đối ạ.
- Được. Đối ngay đi, ta nghe thử!
Quỳnh thong thả đọc vế đối:
- “Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm.”
Nghe xong, mặt quan xám lại như tro bếp. Câu đối lại đúng là câu tục ngữ, không thể bắt bẻ vào đâu được.
Biết ngồi lâu không tiện, quan giục lính hầu ra đi, quên bẵng lời hứa thưởng tiền cho anh học trò nghèo.
Chẳng bao lâu, chuyện ấy lan ra khắp vùng, tên quan kia thì xấu hổ vì làm miệng cười cho thiên hạ còn tiếng tăm của Quỳnh thì nổi như cồn.

5. PHƠI SÁCH, PHƠI BỤNG

Quỳnh có một lão trọc phú. Lão này đã dốt lại thích học làm sang, thỉnh thoảng mò đến nhà Trạng, đòi mượn sách. Tất nhiên lão có mượn được sách về thì cũng biết gì đâu đọc. Quỳnh bực lắm, một bận, thấy lão lấp ló đầu cổng, Quỳnh vội vác ngay chiếc chõng tre ra sân, cởi áo nằm phơi bụng. Lão trọc phú bước vào, thấy lạ, hỏi:
- Thầy làm gì thế?
Quỳnh đáp:
- À! Có gì đâu! Hôm nay được cái nắng tôi đem phơi sách cho khỏi khô mốc
- Sách ở đâu?
Quỳnh chỉ vào bụng:
- Sách chứa đầy trong này!
Biết mình bị đuổi khéo, trọc phú lủi thủi ra về.
Bận khác, lão cho người mời Quỳnh đến nhà. Để rửa mối nhục cũ, lão bắt chước, đánh trần, nằm giữa sân đợi khách…
Quỳnh vừa bước vào, lão cất giọng con vẹt, bắt chước…
- Hôm nay được cái nắng tôi nằm phơi sách cho khỏi mốc
Bất ngờ Quỳnh cười toáng, lấy tay vỗ bình bịch vào cái bụng phệ mà nói;
- Ruột nhà ông toàn chứa những của ngon chưa tiêu hết phải đem phơi, chứ làm cóc gì có sách mà phơi!
Lão trố mắt kinh ngạc:
- Sao thầy biết?
Quỳnh lại cười toáng lên, lấy tay lắc lắc cái bụng béo ụ ị của lão:
- Ông nghe rõ chứ? Bụng ông nó đang kêu “Ong óc” đây này! Tiếng cơm, tiếng gà, tiếng cá, lợn… Chứ có phải tiếng chữ, tiếng sách đâu. Thôi ngồi dậy, mặc áo vào nhà đi.
Lão trọc phú lủi thủi làm theo lời Quỳnh, và ngồi tiếp khách một cách miễn cưỡng.

6. CHÚA LIỄU MẮC LỠM

Lúc Quỳnh còn là học trò nhà nghèo, phải ra đền Sòng xin cấy rẽ. Đền Sòng quê ông là nơi thờ Bà Chúa Liễu nổi tiếng rất linh thiên, không ai là không kinh sợ. Chúa Liễu có nhiều ruộng và bà cũng cho cấy rẽ để lấy lợi. Lần ấy, Quỳnh vào đền khấn mượn đất xong thì khấn quẻ âm dương hỏi Chúa là bà lấy gốc hay lấy ngọn trong vụ thu hoạch tới. Lần đầu Chúa bảo lấy ngọn, thế là vụ ấy Quỳnh trồng khoai lang. Đến khi khoai đã có củ, đào khoai xong, Quỳnh đem hết củ về nhà còn bao nhiêu dây khoai Quỳnh đem để đền bà chúa.
Lần thứ hai, xin âm dương, Chúa đòi lấy gốc để ngọn cho Quỳnh. Mùa ấy Quỳnh liền trồng lúa. Đến mùa gặt, Quỳnh cắt hết bông và đem gốc rạ trả cho Bà Chúa!
Chúa Liễu hai lần bị Quỳnh lừa, tức giận lắm xong đã trót hứa rồi, không biết làm thế nào được. Lần thứ ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc lẫn ngọn, còn khúc giữa cho Quỳnh, Quỳnh giả vờ kêu ca:
- Chị lấy thế em còn gì được nữa !
Khấn đi khấn lại mãi, Chúa nhất định không nghe, Quỳnh về trồng ngô, đến kỳ bẻ ngô bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ngọn với gốc Quỳnh đem nộp cho Chúa.
Chúa mắc mưu Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ ấy, Quỳnh đã kiếm cũng được cái vốn kha khá rồi.
Read more…

Dân giần quan

15:39 |

Truyện cười hay nhất: Dân giần quan, truyện cười hài hước, sảng khoái

truyen cuoi hay
truyen cuoi hay

1. Dân giần quan

Có hai anh lính hầu hạ quan lâu ngày, thấy quan đã ác lại hay ăn tiền, ai có việc vào cửa quan là y như bị đánh đập tàn tệ, đến lúc xì tiền ra mới thôi.
Một hôm, rỗi rãi, hai anh ngồi kháo chuyện với nhau nói xấc quan. Một anh bảo:
-Ác thế thì có ngày dân nó quật lại cho mà xem.
Quan quán quạn chi quàn quan
Dân dấn dận chi dần dân
Quan là quan, quan quàn quan
Dân là dân, dân giần quan
Chẳng ngờ, quan đi qua nghe được, trợn mắt hỏi:
-Bay nói gì thế?
Anh kia nói chữa:
-Bẩm quan, con bảo : Quan quản dân, dân….. cần quan. Không có quan thì ai cai trị dân.

2. Cứ bảo tuổi sửu có được không?

Đồn rằng có một ông huyện rất thanh liêm, không ăn của đút bao giờ. Bà huyện thấy tính chồng như vậy cũng không dám nhận lễ của ai. Có làng nọ muốn nhờ quan huyện bênh cho được kiện, nhưng mang lễ vật gì đến, quan cũng gạt đi hết. Họ mới tìm cách đút lót với bà huyện. Bà huyện cũng chối đây đẩy :
-Nhà tôi thanh liêm lắm, tôi mà nhận của các ông thì mươi, mười lăm năm sau, ông ấy biết ông ấy vẫn còn rầy rà tôi cơ đấy !
Dân làng năn nỉ mãi, bà nể tình mới bày cách :
-Quan huyện nhà tôi tuổi tí (tí là tuổi chuột, sửu là tuổi trâu). Dân làng đã có ý như vậy, thì hãy về đúc một con chuột bạc đến đây, rồi tôi thử cố nói giùm cho, họa may được chăng !
Dân làng nghe lời, về đúc một con chuột cống thật to, ruột đặc, toàn bằng bạc, đem đến.
Một hôm, ông huyện trông thấy con chuột bạc, mới hỏi ở đâu ra, bà huyện đem đầu đuôi câu chuyện kể lại. Nghe xong, ông huyện mắng:
-Sao mà ngốc vậy! Lại đi bảo là tuổi “tí” ! Cứ bảo là tuổi “sửu ” có được không?

3. Chả giấu gì bác

Có một ông lâu ngày đến nhà ông bạn thân chơi. Khách chủ gặp nhau chuyện trò rôm rả. Chủ kiếm trầu mời khách nhưng giữa cơi trầu chỉ có mỗi một miếng. Chủ khẩn khoản mời mãi, khách đành phải ăn.
Cách một thời gian sau, ông này nhớ bạn lại đánh đường sang thăm trả.
Thấy bạn đến, ông kia mừng lắm, mời lên nhà ngồi. Chuyện trò lại rôm rả.
Ông này cũng bày ra giữa cơi chỉ có mỗi một miếng trầu và khẩn khoản mời.
Ông khách khen cơi trầu đẹp và nể lời cầm miếng trầu lên tay ngắm nghía:
- Thứ cau của nhà bác chắc bổ vào dịp trời mưa nên nó lắm xơ nhỉ?
- Không đâu ạ, đó chính là miếng trầu bác mời dạo nọ đấy ạ. Tôi ngậm nên nó hơi bị giập ra.
Read more…

Giấu đầu hở đuôi

15:39 |

Mời các bạn đến với những câu chuyện vui nhộn, hài hước, truyện cười hay nhất: Giấu đầu hở đuôi

truyen cuoi hay
truyen cuoi hay

1. Giấu đầu hở đuôi

Một ông sư hổ mang, sai tiểu đi mua thịt cầy về nhắm rượu, dặn có ai hỏi thì không được nói. Chú tiểu mua gói thịt cầy về tới cổng chùa, chẳng may gặp phải một vị khách vãng cảnh chùa. Khách hỏi:
-Chú có gói gì thế?
Chú tiểu sực nhớ lời sư dặn liền nói:
-Tôi đố ông biết đấy ! Ông mà đoán đúng tôi xin thưởng ông gói thịt cầy này.

2. Quà mừng sinh nhật

Tao vừa trải qua 1 kỳ sinh nhật khủng khiếp mầy ạ” – A bảo.
B hỏi: “Như thế nào?”.
A: “Này nhé, con nhỏ thư ký nó mời tao về nhà nó để mừng sinh nhật tao, lúc đầu, nó bảo ta uống rượu, xong rồi lại cho tao ăn sò huyết, cuối cùng nó bảo: Em sẽ tặng anh 1 món quà ! Bi giờ, em vào trong buồng, 5 phút sau anh mới được vào đó, nhớ hông ?”.
B cười: “Sướng nhẩy !”
A: “Sướng cái gì mà sướng ! Lúc vào trong đó, tao thấy … đủ đủ mặt nhân viên trong văn phòng, tất cả đều hát bài Chúc mừng sinh nhật, chỉ có điều …. lúc đó tao chả còn mảnh vải nào trên người !”

3. Cục đá biết la!

Ngày xưa, có một cô thôn nữ đẹp mặn mà, duyên dáng và rất đỗi khôn ngoan. Sắc đẹp của nàng khiến cho lão quan huyện hói đầu và tên thầy đồ háo sắc chết mê chết mệt.
Lão quan huyện thường hay ve vãn, lui tới tỏ lời ong bướm, còn tên thầy đồ thì hay hẹn hò tán tỉnh. Nàng chẳng ưa và rất bực với hai lão già dê này.
Một hôm, quan huyện lại đến nhà tán tỉnh dây dưa, nàng cho lão một cái hẹn:
- Đúng canh 3 đêm 30, quan đến trước nhà em, chỗ có cây ớt. Quan ngồi kế bồn cây ớt, nếu có ai đi qua thì quan cứ ngồi im đừng động đậy. Quan ngồi đó chờ lát, em sẽ ra tâm sự với quan tới sáng…
Lát sau ông thầy đồ cũng lò mò đến, nàng cũng hẹn:
- Tối mai đêm 30, sau trống điểm canh 3 được một lúc, thầy đến trước cửa nhà em chỗ cây ớt, ngồi đó chờ em, nếu không thấy em ra, thầy cứ lấy cái dùi em để dưới gốc ớt gõ vào cục đá kế đó cho em, em sẽ ra với thầy.
Đêm 30, chưa tới canh 3, lão quan huyện mò đến gốc ớt, chui xuống ló cái đầu hói lên, lòng rộn ràng chờ đợi cái phút giây sung sướng.
Sau hồi trống điểm canh 3, thầy đồ mò đến, chui vào gốc cây ớt thấy có cây dùi thầy mừng lắm. Chờ một lát, thầy cầm dùi gõ vào cục đá tròn tròn bóng bóng nghe cốc cốc. Quan huyện thấy ê đầu nhức óc nhưng không dám la, cứ ngồi cắn răng mà chịu. Không thấy “người yêu” ra, thầy đồ tưởng mình gõ nhẹ quá bèn gõ cái dùi một cái cốc mạnh hơn lần trước. Quan huyện bị gõ muốn bể đầu nhưng đành nhăn mặt chịu trận vì nàng đã dặn không được lên tiếng. Đợi thêm một hồi thấy lâu quá, thầy đồ giơ cao dùi định táng thật mạnh thì bất ngờ cục đá đứng lên nói mếu máo:
- Nãy giờ tao nhịn nhiều rồi nhen, thằng chó nào dám gõ đầu tao?
Thầy đồ hết hồn liền liệng cây dùi đâm đầu chạy tháo thân, người nhà cô gái tưởng ăn trộm bèn la lên.
Lão quan huyện mang cái đầu hói mới mọc hai cái sừng nhảy cái “rột” dông tuốt.
Read more…